Thông luật ở Anh Bồi thường

Điều khoản bồi thường

Theo phần 4 của Đạo luật về Gian lận (1677), một "bảo đảm" (cam kết trách nhiệm thứ cấp; để chịu trách nhiệm cho sự vỡ nợ) phải được chứng minh bằng văn bản. Việc tiến hành cam kết bằng miệng hay các hình thức tương tự khác (liên quan đến việc giả định trách nhiệm chính; thanh toán bất kể khoản nợ của người khác) sẽ không nhận được sự bảo đảm từ tổ chức thi hành.[1]

Theo luật hiện hành của Anh, các khoản bồi thường phải được thể hiện rõ ràng và chính xác trong hợp đồng để có hiệu lực thi hành.[2] Đạo luật Điều khoản Hợp đồng Không công bằng năm 1977 quy định rằng người tiêu dùng không thể bồi thường một cách bất hợp lý cho người khác vì hành vi vi phạm hợp đồng hoặc sơ suất của họ, mặc dù phần này đã bị bãi bỏ bởi Đạo luật Quyền lợi Người tiêu dùng 2015 theo biểu 4 đoạn 6.[3]

Trao hợp đồng

Anh và xứ Wales, sự bồi thường tiền tệ có thể hình thành một phần của sự hủy bỏ trong một hành động thay đổi cơ cấu trong tích phân. Tài sản và tiền được trao đổi, nhưng có thể được bồi thường cho các chi phí nhất thiết phải phát sinh cho bên vô tội theo hợp đồng. Ví dụ minh họa cho vấn đề này là trường hợp Whittington v Seale-Hayne.[4] Chủ trang trại là ông Whittington đã mua một hợp đồng thuê trang trại dài hạn, do Seale-Hayne đại diện khẳng định cơ sở là hợp vệ sinh và đang được sửa chữa tốt. Tuy nhiên, nguồn nước bị nhiễm độc, người quản lý của ông Whittington bị ốm nặng và gia cầm chết. Theo hợp đồng cho thuê, ông Whittington đã giao ước tiến hành sửa chữa theo yêu cầu của hội đồng, việc này là cần thiết sau khi hội đồng tuyên bố cơ sở không phù hợp để ở và hệ thống thoát nước cần được thay mới tuy nhiên Whittington đã tìm cách thoái thác và chỉ bồi thường cho thiệt hại về gia cầm và chi phí y tế.

Cách phân biệt giữa bồi thường và thiệt hại là một "bảo đảm" (cam kết trách nhiệm thứ cấp; để chịu trách nhiệm cho sự vỡ nợ) phải được chứng minh bằng văn bản. làm thế nào có thể trả tiền nếu bị đơn không có lỗi? Hợp đồng trước khi hủy bỏ là hợp đồng vô hiệu hay là hợp đồng hợp pháp. Trong thời gian đó, cả hai bên đều có nghĩa vụ pháp lý. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì các nghĩa vụ đã thực hiện cũng phải được bồi thường. Do đó, chi phí bồi thường phát sinh từ các nghĩa vụ (tạm thời và đã được thực hiện) của nguyên đơn chứ không phải do bị đơn vi phạm nghĩa vụ.[5]

So sánh hợp đồng bồi thường với các bảo đảm

Bồi thường khác với bảo đảm, là lời hứa của bên thứ ba về việc tôn trọng nghĩa vụ của một bên trong hợp đồng nếu bên đó không thể hoặc không muốn làm như vậy (thông thường, bảo đảm chỉ giới hạn ở nghĩa vụ trả nợ). Sự phân biệt giữa bồi thường và bảo đảm này đã được thảo luận ngay từ thế kỷ thứ mười tám trong Birkmya v Darnell.[6] Trong trường hợp đó, trước sự lo ngại về việc đảm bảo thanh toán tiền hàng thay vì trả mỗi tiền thuê, thẩm phán giải thích rằng một bảo đảm có hiệu lực là "Để anh ta nhận được hàng; nếu anh ta không trả tiền cho bạn, tôi sẽ làm."[7]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bồi thường http://my.angieslist.com/AngiesList/ALUserAgreemen... http://corp.bankofamerica.com/business/bi/terms-an... http://www.boatus.com/magazine/2015/april/marina-c... http://www.corpcounsel.com/id=1202759907099/Some-I... http://www.dailyreportonline.com/id=1202747710279/... http://www.davis-stirling.com/MainIndex/HoldHarmle... http://www.jdsupra.com/legalnews/tips-for-a-startu... http://www.pillsburylaw.com/publications/english-i... http://realtytimes.com/consumeradvice/hoaadvice1/i... //ssrn.com/abstract=2646447